
02, 2025
NGÔI LÀNG TRỌNG LỄ NGHI MANG TÊN "CỔ LỄ"
NAM ĐỊNH – Làng Cổ Lễ gắn với những huyền tích về vị Thánh Tổ, thiền sư Nguyễn Minh Không và dân làng nơi đây ngàn đời gìn giữ tinh thần “vô bất kính”.
Ngôi làng gắn với một trong “Nam thiên tam vị thánh Tổ”
Làng Cổ Lễ là thị trấn Cổ Lễ, huyện Trực Ninh, Nam Định ngày nay. Trong dân gian vẫn lưu truyền câu ca dao: “Dù ai buôn bán trăm nghề/ Mười tư tháng chín thì về hội Ông”. Hội Ông ở đây là ngày đản sinh của thiền sư Nguyễn Minh Không, ngày 13 tháng 9 Âm lịch. Ngài sống vào thế kỷ 12, là một bậc chân tu, một danh y tài đức và cũng là tổ sư nghề đúc đồng, được triều đình nhà Lý phong là “Lý triều Quốc Sư”, một trong “Nam thiên tam vị thánh Tổ”.
Thượng tọa Thích Tâm Vượng, trụ trì chùa Cổ Lễ chia sẻ, “Thuở thiếu thời, thiền sư Nguyễn Minh Không chuyên làm nghề chài lưới của cha ông. Đi xuất gia tu theo đạo Phật minh tâm kiến tính trở thành Phật tử có tài có đức và y sư nổi tiếng”. Khi đến mảnh đất Nam Định này, ngài đã dạy dân đánh bắt, bốc thuốc chữa bệnh cho dân chúng. Hiện nay trong chùa Cổ Lễ còn giữ lại một vạc dầu cổ. “Cái vạc dầu này là bấy giờ đức thánh tổ cho thả 100 cái kim vào nấu lên và chữa bệnh cho vua Lý chữa bệnh hóa hổ. Nên cái vạc này gắn với cái tính chữa bệnh cho vua Lý Thần Tôn”.
Làng Cổ Lễ với các vị tăng ni “nhập thế cứu đời”
Trong suốt cuộc đời của Đức thánh Tổ, dù được phong là Lý Quốc Sư nhưng ngài chối từ sống trong lầu son gác tía. Hơn 500 ngôi chùa ngài tạo dựng trên khắp nước Nam đều gắn với bước đường ngài đi tải đạo và tìm thuốc Nam chữa bệnh cho dân. Dân làng Cổ Lễ này kính trọng cái tài và cái tâm của ngài nên đời nối đời ghi nhớ công ơn. Khi chùa Cổ Lễ được dựng xây, dân làng hiệp lực cùng nhau góp công, góp của. Cũng vì lẽ đó mà chỉ từ gạch, vôi, vữa, mật, muối, giấy bản, sức của dân đã giúp Thượng tọa Thích Quang Tuyên dựng xây nên chùa Cổ Lễ “nhất thốc lâu đài” nguy nga, tráng lệ như ngày nay. Dù cách nhau đến 7 thế kỷ nhưng tư tưởng của thánh sư vẫn khiến sư tổ Thích Quang Tuyên khắc cốt ghi tâm, truyền tải vào từng hạng mục kiến trúc trong chùa.
Họa thượng Thích Tâm Vượng chia sẻ: " Tháp Cửu Phẩm Liên Hoa cao 32 m, xây trên lưng rùa, đầu hướng về chùa, là biểu tượng của văn hóa Phật giáo Tịnh độ, cũng là biểu tượng cho sự vững trãi, trường tồn của Phật pháp. Tháp có 8 mặt, 9 tầng ứng Bát Chánh Đạo và 9 phẩm hoa sen. Trên tháp có những câu kệ mang chữ Phạn nhằm tưởng nhớ thời gian thiền sư Nguyễn Minh Không sang Ấn Độ học đạo và tu hành theo phái Mật tông. Một cây cầu cuốn nối tháp vào chùa thể hiện rõ tư tưởng của thánh sư: Đạo luôn gắn kết với Đời. Không gian Phật giáo Hội quán là nơi người dân và du khách chiêm bái đông nhất. Với tôi, nơi đây khác hoàn toàn với bất cứ không gian chùa cổ nào.
Phật giáo Hội quán này xây dựng trong thời kỳ phong trào văn thân chống thực dân Pháp đang dâng cao. Có 6 chữ xung quanh gọi là Án Mani Padme Hung. Đó là thần chú trong lá bùa của Bồ Tát Quán Thế Âm. Ngài là người tầm thanh cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh và nhân loại. Nên trong Hội quán có bức tượng Quán thế âm thiên thủ thiên nhãn".
Trong thời kỳ đất nước sục sôi tinh thần chiến đấu, chính tại nơi đây trở thành chốn nương về, địa chỉ đỏ trong phong trào cách mạng của tỉnh Nam Định, là cơ sở nuôi giấu cán bộ và du kích. Nối tiếp thiền sư Thích Quang Tuyên, khi Hòa thượng Thích Thế Long về đây trụ trì tiếp tục dựng xây chùa Cổ Lễ. Quả chuông này gọi là Đại Hồng Chung, được đúc năm 1936 để cầu an. Nhân dân, phật tử trong vùng đã góp tiền vàng để đúc. "Sau khi đúc xong, chưa kịp treo thì cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ. Sợ chúng phá hoại chuông, hòa thượng mới hô hào nhân dân đồng bào Phật tử vần chuông, ngâm xuống hồ, giấu đi". Từ đó, chiếc chuông nặng 9 tấn, 88 năm tuổi dù được trục vớt lên nhưng chưa một lần được đánh.
Khi tham quan chùa, ở Ban Địa Tạng có những di ảnh của các nhà sư như là Đại tá Đinh Thế Hinh, nhà giáo Nguyễn Thế Vinh. Đây là một trong những người con của chùa Cổ Lễ đã cởi áo ca sa khoác chiến bào. Có lẽ đối với những nhà sư ở ngôi chùa này, họ chưa bao giờ lánh đời, mà luôn nhập thế, để đạo luôn trong đời trong đời có đạo.
Từ khi Đạo Phật hưng thịnh ở Việt Nam đã thấm nhuần tư tưởng Tam giáo đồng nguyên. Và dù ở thời kỳ nào các vị tổ sư chùa Cổ Lễ đều hòa cùng dòng chảy Phật giáo Việt Nam hộ quốc, an dân, luôn đồng hành cùng dân tộc, mà cốt lõi chính là tinh thần sống đạo, tinh thần nhập thế, hòa quang đồng trần, đạo đời hòa hợp. Phật giáo với tinh thần “cởi áo cà sa khoác chiến bào”. Và vì vậy, Đại Hồng Chung chưa một lần ngân vang cũng là một sự tưởng nhớ đến sự kiện lịch sử của chùa Cổ Lễ. Từ năm 1947 đến năm 1981, Tổ sư Thích Thế Long làm lễ cởi áo cà sa cho 35 vị tăng, ni khoác chiến bào xông pha ra chiến trường bảo vệ Tổ quốc, trong đó có 12 nhà sư đã anh dũng hy sinh, phần mộ hiện nay được an táng tại chùa. Chuông không cần đánh nhưng chốn cửa Phật ở Thần Quang Tự đã vang xa thanh âm của lòng từ bi và anh dũng của các vị tăng, ni.
“Chúng con xin dốc lòng phát nguyện
Đem thân ra tiền tuyến cứu nhân
Diệt trừ cho hết thực dân
Trở về bái tạ trọn thân tu hành”.
Làng Cổ Lễ lấy kính làm đầu
"Ngày xưa dù đến bao giờ / Lòng dân vẫn nhớ tôn thờ ngày xưa".
Mỗi mùa lễ hội, con cháu của 5 dòng họ cổ của làng Cổ Lễ gồm Dương Nhất, Nguyễn, Phan, Lê và Dương Nhì lại trở về bên gia đình, dòng họ. Họ ôn lại công đức của Thánh tổ Nguyễn Minh Không, công đức của cụ tổ dòng họ mình và tình làng nghĩa xóm ngàn năm qua.
Không giấu cảm xúc tự hào, ông Lê Minh Phiển, Tiên chỉ họ Lê đại tộc - Đại diện 5 dòng họ kể rằng, "lễ hội chùa Cổ Lễ sẽ có rước kiệu 5 dòng họ về tụ hội tại chùa để ngày hội chính sẽ làm lễ rước phụng nghinh kiệu Đức Thánh Tổ, kiệu Mẫu quanh làng".
Những trò chơi dân gian diễn ra từ sáng đến chiều. Đông vui nhất mà không ai bỏ lỡ là Hội thi Bơi chải. Hòa vào đám đông, tôi mới cảm nhận rõ rệt cái đông vui, cái nhộn nhịp trong tinh thần của 5 dòng họ cổ. Ở đó, người dân cũng ngầm kể câu chuyện cuộc đời Đức Thánh Tổ trước khi xuất gia, ngài làm nghề chài lưới ven biển.
Vào mỗi tối trong những ngày lễ hội, khi người dân đã cơm nước xong xuôi, họ lại quay trở về bên Tam Bảo để xem Hội Chầu rối cung nghinh Đức Thánh Tổ. Đã lâu lắm rồi, nghi lễ này vắng bóng trong lễ hội, do chỉ được tổ chức độc quyền bởi Phái 2- Ngành 2- Họ Nguyễn Đại Tộc và có nguy cơ mai một. Nhưng 2 năm nay, bộ môn Chầu rối này được khôi phục với nghệ nhân Nguyễn Duy Chiến là trưởng của phái 2 ngành 2 dòng họ Nguyễn. Anh cũng là Hội trưởng đảm nhiệm điệu múa ông Tràng. Anh kể rằng: "Múa rối chầu thánh ở đây là một môn nghệ thuật tâm linh, chứ không phải nghệ thuật văn hóa bình thường. Như sử sách viết lại, hoàng hậu đẻ ra 1 bọc tay xách không nổi, tâu lên Hoàng thượng đem bỏ vườn hoa. Khi gặp ngài thì cứu sinh tịnh độ cứu về. 9 đầu rối này chính là 9 sinh linh đó. Nên mỗi một năm vào ngày sinh nhật của ngài, thể hiện công lao, chúng tôi dùng những đầu rối đó thể hiện công lao của ngài. Khi theo chầu thánh, bản thân chúng tôi thấy cơ thể con người nhẹ nhõm, linh hoạt, nó mang tính chất thoải mái. Từ đó mình sẽ có điều phát triển tốt hơn".
Có tất cả 9 đầu rối, Các vẻ mặt của đầu rối có khóc, cười, trách móc. Mỗi nghệ nhân khi múa chầu tay dâng hai đầu rối, chân nhảy theo chữ Khẩu. Mỗi cặp đôi nhảy chầu rối đều có các động tác và nhịp điệu giống nhau, đều thể hiện sự sung sướng, vui mừng khi được cứu độ và được tắm mát trong dòng sông thanh tịnh của pháp Phật nhiệm màu. Riêng ông Tràng sẽ nhảy Chầu một mình với một đầu rối. Nhịp điệu khoan thai, điềm tĩnh tác phong của anh trưởng. Ông dùng chân viết từng nét chữ Vạn và Thánh cung Vạn Tuế - Thiên hạ thái bình.
Kết.
Theo Nho giáo, Chữ Kính chính là gốc của Lễ, và Lễ còn là con đường để làm người. “Tiên học Lễ, hậu học Văn”, người xưa nói có sai bao giờ. Cũng vì lẽ đó mà qua bao biến chuyển thay tên đổi địa giới, tên Cổ Lễ lại về đúng địa danh hành chính của nơi đây. Những bài học về làm người, về tu đạo, vì tình làng nghĩa xóm, uống nước nhớ nguồn, đạo của người Việt từ xa xưa luôn được dân làng gìn giữ để xứng với tên quê hương bản quán – Cổ Lễ. Đó có lẽ là những suy tưởng của riêng tôi khi vãn cảnh chùa trong nhưng ngày hội này. Phong cảnh vừa u tịch, vừa thâm nghiêm lại hết sức hữu tình, khiến ta ngộ ra bao điểu. Phải chăng vì thế mà lễ hội chùa Cổ Lễ luôn linh thiêng, được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia và thu hút du khách thập phương chiêm bái mỗi độ thu về.