
02, 2025
LỄ HỘI BÁT TRÀNG – HÀNH TRÌNH TRI ÂN TỔ NGHỀ
Đi tìm lịch sử nghề gốm
Nằm ở tả ngạn sông Hồng, Làng gốm Bát Tràng nức tiếng gần xa với nghề làm gốm. Một ngôi làng với tuổi đời hơn 700 năm, là niềm tự hào của mảnh đất Thăng Long nghìn năm văn hiến.
Theo lưu truyền dân gian và gia phả một số dòng họ ở làng Bát Tràng, làng được lập vào đầu thời Lý, gắn với hành trình di cư của một bộ phận dân làm nghề gạch và nghề gốm từ vùng Ninh Bình – Thanh Hóa ra để phục vụ đời sống của kinh thành Thăng Long.
Theo ông Phạm Văn Mai, Phó Trưởng ban đại diện nhân dân làng gốm Bát Tràng chia sẻ ràng, nghề gốm có trước làng Bát Tràng nên ngày nay, người ta nhắc đến là nhắc đến gốm Bát Tràng. Gốc nghề từ Thanh Hóa xưa, Ninh Bình ngày nay. Sau khi nhà Lý rời đô ở Thăng Long, nhà vua đã cho các làng nghề có thợ thủ công ra ngoài kinh thành để xây dựng. Nghề gốm là một trong số nhiều nghề được nhà vua cho phép. Đây chính là tiền thân của làng Bát Tràng. Bà con sống dọc bên sông Hồng lập làng và đặt tên đầu tiên là Bạch Thổ phường.
Người dân Bát Tràng luôn ghi nhớ công ơn khai lập và phát triển làng của 23 dòng họ. Qua bao thế kỷ, các dòng họ đã chung lưng đấu cật, phát huy các yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa để xây dựng và mở mang làng xóm. Tên làng Bát Tràng chỉ sự hòa hợp, vận hành uyển chuyển như một lẽ tự nhiên, giúp cho cuộc sống của dân làng luôn gặp vạn sự hanh thông. Người dân nơi đây có ý chí và niềm tin vững chắc vào nghề gốm. Làng trở thành làng gốm, làng buôn, làng khoa bảng với nhiều nét văn hóa riêng biệt của thủ đô Hà Nội.
Nghề làm gốm Bát Tràng được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, với nhiều giá trị văn hóa, lịch sử đặc sắc, các công trình kiến trúc với quy mô hoành tráng. Các phong tục tập quán và tín ngưỡng độc đáo suốt ngàn năm hội tụ trong ngày hội làng.
Trước đây, hội làng tổ chức kéo dài 15 ngày trong tháng Hai nhưng hiện tại đã gói gọn trong 3 ngày 14, 15 và 16. Nhiều hoạt động sẽ được tổ chức tại các di tích lịch sử đã được xếp hạng như: Kim Trúc Tự, Đền Mẫu Bản Hương, Văn Từ, mà trọng tâm là Đình làng Bát Tràng, nơi thờ tự 6 vị thần đã có công giúp dân đánh giặc giữ nước bao gồm các vị: Uy Dương Bạch Mã Đại Vương; Lưu Thiên Tử Đại Vương; Hiền Linh, Lã Thánh Mẫu; Phan đại tướng Đại Vương; Triệu Phù hộ quốc Đại Vương; Dực Phù Phạm Quốc Đại Vương.
Ông Mai rất tự hào khi chia sẻ về đình làng mình. Ông tin rằng người Việt mình bao đời nay, làng phải có thành hoàng để phù trợ cho dân an cư lạc nghiệp. Làng Bát Tràng cũng không ngoài tư duy đó. Và hội làng phải diện ra ở đình thờ thành hoàng. Đó là tình cảm của dân làng tri ân công đức của thành hoàng.
Những tục lệ ngàn năm vẫn giữ vẹn tròn
Nghi lễ quan trọng nhất diễn ra vào sáng 14.2 Âm lịch là lễ tế khai hội. Mâm lễ Tam Sinh dâng lên các thánh, thành hoàng được người dân chuẩn bị vô cùng chu đáo, bao gồm: một ông trâu tơ thui, một ông dê thui và một ông heo sữa quay được đặt trên chiếc mâm lớn phủ vải điều đỏ. Điều đặc biệt, thông thường ý nghĩa của cúng tam sinh là dâng cúng ba ông thuộc ba cõi: Thiên - Địa - Thủy. Cúng Thiên bằng chim, gà, ngan ngỗng; cúng Địa bằng các con vật bốn chân, và cúng Thủy bằng tôm cua cá… Tuy nhiên, dân làng Bát Tràng lại cúng ông trâu và ông dê, ông lượn để biểu trưng cho cõi Địa. Về sự khác biệt này, ông Mai giải thích, người nông dân bao giờ cũng trọng con trâu, “con trâu là đầu cơ nghiệp”, còn dê và lợn là những vật nuôi rất gần gũi với nhà nông. Nên ba ông được người dân chọn dâng lễ.
Sau lễ Tam Sinh, đội tế bao gồm chủ tế và các bồi tế, đông xướng, tây xưởng và chấp sự thực hiện nghi tiết tế thánh. Ngoài nghinh thần với ba tuần rượu chính là sơ hiến lễ, á hiến lễ và chung hiến lễ, còn xen kẽ nghi thức phân hiến lễ.
Sau khi tiến hành các nghi thức tế, hai đoàn rước thực hiện lễ cấp thủy, rước nước và rước bộ. Lễ rước nước có từ lâu đời, đây là nghi thức truyền thống biểu hiện tín ngưỡng cầu nước của người dân, mong muốn một năm mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu. Mỗi một làng có một vị trí địa lý khác nhau, làng gần sông sẽ ra sông lấy nước về để tế thánh, còn những làng khác không có sông, dân làng sẽ lấy nước ở hồ trước cửa đình, mang về cúng thánh.
Chiếc thuyền hộ giá mọi người được trang hoàng cờ xí, đồ cúng tế vàng mã. Mã có tượng ba đầu được đóng trên bè trang trí đều là đồ cúng tế. Khi chủ tế và nhà chùa làm lễ xong thì bắt đầu phóng sinh và thực hiện nghi lễ cấy nước. Người bệnh bái được làng giao trọng trách là dùng gáo múc 18 gáo đồng nước đổ vào chóe cúng thông qua một màng lọc. Chiếc chóe cúng được phủ nhiễu điều, được tám thanh niên khiêng, rước về đình để cúng tế quanh năm.
Điều đặc biệt là lễ cấp thủy diễn ra trên khúc sông Nhị Hà rợp cờ hoa và thuyền rước không những của làng Bát Tràng mà còn là đoàn rước thủy của làng Nam Dư. Làng Nam Dư mở hội cùng ngày với làng Bát Tràng nhưng trễ hơn làng Bát Tràng một ngày. Làng Nam Dư khi làm lễ cấp thủy bao giờ cũng nhập với đoàn thuyền của Bát Tràng vì hai làng có mối quan hệ giao hiếu.
Trong khi đoàn cấp thủy thực hiện lễ rước nước thì đoàn rước bộ, dâng hương tại Kim Trúc Tự, nhà thờ Bác Hồ, đền Mẫu Bản Hương. Theo quan niệm của dân làng, thành hoàng chỉ ngự ở đình khi làng vào đám, còn quanh năm thành hoàng ngự ở miếu. Vì vậy, bộ phận dân làng theo nghi thức rước đám sẽ ra miếu rước bát hương thờ các vị thánh, thành hoàng làng từ miếu ra đình.
Ngày 15 là ngày dành cho các hoạt động dâng hương của 19 dòng họ trong làng cũng như các cơ quan đoàn thể và bạn bè du khách gần xa. Làng Bát Tràng từ khi lập làng đến nay chỉ có nghề làm gốm, các nghề phụ ngày xưa có thêm nghề buôn bán cau khô, nước mắm, bốc thuốc và người học hành đỗ đạt thì làm quan trong triều đình phong kiến. Vì vậy làng Bát Tràng thịnh hay suy cũng chỉ có một nghề. Các dòng họ khi lập nghiệp tại Bạch Thổ phường đều xây dựng các nhà thờ, và khi làng vào hội thì các dòng họ sẽ sắm sửa hai lễ. Một lễ để cúng tổ tại nhà thờ họ mình và một lễ rước tổ của mình vào ngày 15. Các dòng họ lần lượt dâng lễ vào lễ thánh . Và hai bên tả hữu của đình đều có chỗ để đặt bát hương các dòng họ. Các tổ ra đình để hầu thánh, xem hội và hưởng lộc thánh. Khi hết hội các dòng họ lại ra đình rước tổ của mình về nhà thờ.
Trong 3 ngày tổ chức lễ hội, nhiều sự kiện diễn. Đặc biệt tối ngày 16/2, rất đông người dân làng Bát Tràng cũng như du khách đã tham gia nghi lễ thả hoa đăng trên dòng Nhị Hà. 20 nghìn hoa đăng cùng các mâm lễ mã đã được thả, pháo bông cũng được đốt, để người dân Bát Tràng kính cáo đấng thần linh tối thượng và trời đất, rằng lễ hội làng Bát Tràng đã thành công viên mãn.
Kết
Trải qua biết bao biến động của thời cuộc, của những thăng trầm lịch sử, làng nghề Bát Tràng vẫn sừng sững ở đó, vững chắc và tràn đầy sức sống, tràn đầy hy vọng. Những người con Bát Tràng vẫn luôn cố gắng trong việc duy trì bảo tồn những giá trị truyền thống, đồng thời tiếp tục đổi mới sáng tạo góp phần làm phong phú di sản làng nghề. Bản thân lễ hội Bát Tràng cũng là một ví dụ khi được rút ngắn để phù hợp với thời đại mới. Điều quan trọng, cũng là điều những người con Bát Tràng luôn luôn tự nhắc nhở, là kim chỉ nam của làng nghề giàu truyền thống này: Luôn luôn hết mình và dành trọn tâm huyết cho những gì mình đang làm. Vì vậy, khoảng thời gian tháng hai âm lịch là hàng nghìn người dân Bát Tràng lại nô nức tổ chức lễ hội làng nghề với tâm điểm là lễ rước truyền thống, nhằm tôn vinh Đức tổ nghề. Đây đã trở thành nét văn hóa truyền thống tốt đẹp, nơi người làng Bát Tràng thể hiện niềm tự hào, lòng biết ơn tới nghề gốm truyền thống cha ông truyền lại cũng như gửi gắm ước vọng về cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Lễ hội làng nghề Bát Tràng, là dịp để du khách tận hưởng vẻ đẹp và sự sôi động của một làng gốm truyền thống, khám phá miền di sản độc đáo, nơi tinh hoa hội tụ.